+ Hàn Quốc: chính thức đặt quan hệ hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực lao động từ năm 1993 chủ yếu thông qua chế độ tu nghiệp sinh.
Tính đến năm 2000 có 8 doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam được phép cung ứng TNS cho Hàn Quốc. Đó là: LOD, TRACIMEXCO, TRACODI, VINACONEX, OLECO, IMS, SULECO, SOVILACO đưa được tổng số lao động sang làm việc tại Hàn Quốc là 29.000 người chiếm khoảng 40% thị trường xuất khẩu lao động của Việt Nam kể từ khi thực hiện theo cơ chế mới. Năm 1996 số lao động đưa đi đạt mức kỷ lực ở con số 6.275 người.
Năm |
Số lao động (người) |
1996 |
6275 |
1999 |
3700 |
Đầu 2000 |
5500 |
2003 |
Trên 4000 |
Mức thu nhập bình quân là 500. 000 WON/tháng (trên 400USD/ tháng theo tỷ giá năm 2000: 1USD = 1.100 WON).
Lao động Việt Nam tại Hàn Quốc thường phải làm các công việc 3D (nặng nhọc, kém hấp dẫn, độc hại) nên thu nhập thường không cao. Với các TNS thì trong 3 tháng đầu chỉ được hưởng mức lương bằng 60-70% lương chính thức. Người lao động nước ngoài trong đó có lao động Việt Nam không được hưởng các quyền lợi về lao động như lao động Hàn Quốc nên nhiều lao động đã phá vỡ hợp đồng ra làm ngoài. Năm 2003 có tới 14.000 lao động Việt Nam là lao động bất hợp pháp. Theo ông Phạm Tiến Vân_ đại biện lâm thời đại sứ quán Việt Nam tại Hàn Quốc “ khoảng 60% số lao động Việt Nam tại Hàn Quốc đã phá vỡ hợp đồng ra làm ngoài”.
+ Đài Loan: bắt đầu có quan hệ hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực lao động từ năm tháng 11/1999.
Đặc trưng của thị trường này là có nhu cầu rất lớn đối với lao động làm việc trong các nhà máy, giúp việc gia đình và khán hộ công. Lao động nước ngoài được hưởng các quyền lợi gần như lao động trong nước, mức tiền công chênh lệch không nhiều. Thời hạn hợp đồng làm việc ở Đài Loan là 2 năm, đựơc gia hạn hợp đồng 1 lần tối đa không quá 1 năm nhưng chi phí môi giới rất cao khoảng 5-6 tháng tiền lương tiết kiệm của người lao động. Tính đến năm 2000 có 139 doanh nghiệp Việt Nam chuyên doanh xuất khẩu lao động được phép cung ứng lao động cho Đài Loan trong đó có 34 doanh nghiệp được phép thí điểm cung ứng lao động khán hộ công và giúp việc gia đình. Cũng trong năm 2000 có 30/139 doanh nghiệp đã ký kết đựơc hợp đồng xuất khẩu lao động đưa được 6000 lao động (3256 nữ) sang làm việc tập trung ở ngành như điện tử, may mặc, dệt, xây dựng, thuyền viên đánh cá, riêng khán hộ công và giúp việc gia đình là 1950 người. Trong năm 2000 có 306 lao động bị trả về nước trước thời hạn chiếm 5,7% số lao động đưa sang. Nguyên nhân 108 người (35,3%) vì lý do sức khoẻ; 127 (41,5%) do tiếng Hoa kém; 11 người (3,59%) vi phạm kỷ luật; 6 người (1,96%) do phía chủ và công ty môi giới không chấp nhận. Từ tháng 11/1999 đến 2002 có 26.500 lao động phân bố ở 28 ngành nghề khác nhau trong đó làm việc sản xuất chế tạo chiếm 50%, giúp việc gia đình và khán hộ công là 32%, thuyền viên la 7%. Thu nhập bình quân là 250-300 USD/tháng. Năm 2003: 1500 lao động Việt Nam bị bắt giữ vì làm ngoài.